Có ai từng chạnh lòng nghĩ đến việc tự xét lại mình đã làm được việc gì, trước khi rời xa nhân thế, hay không? Thật ra, khi về già, khi không còn vướng bận với cơm-áo gạo-tiền, người ta thường quay về với chính mình, nhớ lại chuyện đời xưa, rồi viết tự truyện, mong người khác biết rõ về mình hơn. Chuyện như vậy, xưa nay đã xảy ra rất nhiều lần. Điển hình là tác giả quyển Six Degrees of Freedom: Opportunities met. Risks taken. Lessons learned đã kể lại đời mình, trước khi ông từ giả cõi đời vào đầu tháng 1 năm 2023. Nhưng ít ai viết về những chuyện họ muốn làm nhưng còn chưa có cơ hội để làm, cho nên những việc chưa làm đó đành để người quá cố mang theo. Mà nếu có viết ra, có lẽ chỉ có 1 số nhỏ người biết đến và chuyện sẽ không lưu trữ được lâu dài, bởi lẽ có ai biết được đâu mà đọc và nhất là ít có ai có cùng chí hướng với người viết. Rồi mọi chuyện cũng sẽ qua đi, hồn tiêu phách tán, tan theo mây khói, như từ ngàn xưa.
Làm con người có những điều kỳ lạ. Về thể chất, kích thước thì con người quá nhỏ bé, không ra gì cả, so với kích thước của vũ trụ, Nhưng con người lại quá lớn so với kích thước của nguyên tử.
Mò mẫm tìm hiểu về nền văn minh của con người trong hàng trăm
(hay hàng ngàn) năm nay, người ta đã khám phá và giải mã được nhiều điều thú vị.
Thí dụ như ký tự người Babylon dùng khoảng năm 1800 trước Công Nguyên Ancient Babylonian Number và hệ thống lục thập phân (sexagesimal) mà người Babylon dùng vào thời bấy giờ.
![]() |
![]() |
Từ đó người ta đã có thể giải thích vì sao có hệ thống thập nhị phân (duodecimal), cách đếm “1 chục = 12”, “1 năm = 12 tháng”, “1 ngày = 24 giờ”, “1 giờ = 60 phút và 1 phút = 60 giây”, “12 giờ tính theo con giáp”, “góc trong vòng tròn = 360o”, “đêm 5 canh, ngày 6 khắc”… Bạn có từng thắc mắc tại sao người xưa dùng 5 canh và 6 khắc để đo thời gian trong 1 ngày hay không?
Từ hàng ngàn năm qua, con người đã sáng chế rất nhiều loại “đồng hồ” để đo thời gian, từ loại thô sơ không
chính xác lắm trước Công nguyên, đến loại cực kỳ chính xác (10-15 giây) trong nhiều năm gần đây. Từ ngàn năm
trước, người ta đã dùng bóng mặt trời để định giờ lúc ban ngày, và dùng sao
Bắc đẩu để định giờ lúc ban đêm (dựa theo trục
quay của trái dất).
![]() Đồng hồ mặt trời |
![]() |
Người Trung quốc gọi đồng hồ mặt trời là Nhật quỹ. Hình bên phải là Nhật quỹ đào được ở Lạc Dương. Đồng hồ mặt trời chỉ có thể sử dụng lúc ban ngày, trong những ngày trời nắng và cách thiết kế đồng hồ tuỳ thuộc vào vị trí (vĩ độ) của đồng hồ trên trái đất, và thời điểm trong năm.
![]() Sundial của
Ai Cập (khoảng 1500 năm trước Công Nguyên) |
![]() |
Một loại đồng hồ cổ xưa khá thông dụng là đồng hồ nước (water clock, clepsydra, người Trung quốc gọi là Lậu khắc, hay Lậu hồ), dựa theo tốc độ và số lượng của nước chảy. Từ “đồng hồ” trong tiếng Việt bắt nguồn từ chữ “lậu hồ” với cái “hồ” (chỗ chứa nước) làm bằng “đồng”. Đồng hồ nước có thể được sử dụng ban đêm cũng như ban ngày và được hiệu chỉnh (calibrate) bằng cách so sánh kết quả với đồng hồ mặt trời. Một bất lợi của đồng hồ nước là người ta phải châm nước mỗi ngày để giữ mực nước trong hồ cao nhất không được cạn, và phải giảm thiểu sự bốc hơi của nước trong hồ. Hình bên trái là lậu hồ của Trung quốc, và hình bên phải là đồng hồ nước do Ctesibius (285–222 trước Công nguyên) sáng chế, có kim chỉ giờ!
![]() |
![]() |
Người Trung quốc ngày xưa còn dùng Hương triện, một loại đồng hồ đo thời gian bằng hương. Trong tiếng Việt, chúng ta có từ “1 tuần nhang” – có nghĩa là thời gian để đốt xong 1 cây nhang. Vì kích thước khác nhau của cây nhang và cấu trúc của cây nhang khác nhau, nên lối đo thời gian này chỉ là cách ước chừng. Tương tự với đồng hồ nước còn có đồng hồ cát (hourglass, sandglass, sand timer, sand clock), dựa theo lượng của cát trong đồng hồ và tốc độ di chuyển của cát. Đồng hồ cát có từ thế kỷ thứ 8, nhưng chưa được thông dụng cho đến thế kỷ thứ 14. Đồng hồ cát được lợi thế hơn đồng hổ nước ở chỗ người ta không cần đổ thêm cát hằng ngày; nhưng nó lại có 1 điểm bất lợi là với kích thước nhỏ bé, nó chỉ được dùng để đo 1 khoảng thời gian ngắn. |
![]() |
Theo dòng thời gian, cấu trúc của đồng hồ đã thay đổi rất nhiều,
từ đồng hồ cơ (mechanical clock) lên dây bằng tay
(manual winding), hay tự lên dây (automatic), đến đồng hồ chạy bằng pin
(quartz) hay bằng ánh sáng mặt trời (solar watch), hay căn cứ vào giờ quốc tế
qua mạng Internet. Có rất nhiều loại đồng hồ lớn hay nhỏ, rẻ hay mắc, đeo tay
hay để bàn, đồng hồ “bấm giờ cho nhân viên
”, … nên bài này không tiện bàn đến các
loại đồng hồ hiện hữu. Duy có 1 điều đáng chú ý là các đồng hồ điện tử (digital
clock) thông dụng chỉ có số giờ và số phút, vì không ai cần quan tâm đến số giây,
ngoại trừ khi người ta cần biết thời gian chính xác như trong các cuộc tranh tài
thể thao. Kim chỉ giây trong các đồng hồ chỉ giúp người xem biết rằng đồng hồ đang
hoạt động. Mặt khác, trong thế kỷ 20, nhiều người mang đồng hồ đeo tay để tiện
theo dõi giờ giấc. Bây giờ (năm 2023) đồng hồ đeo tay được coi là 1 loại trang sức hơn là 1 dụng cụ đo thời
gian, bởi vì người ta có thể biết giờ địa phương trong các điện thoại cầm tay,
trên máy tính, trên màn hình TV, trong phòng làm việc, trên các thiết bị gia dụng
(household appliances) …
Khi đến tuổi già, người ta không còn đếm thời gian
bằng ngày, giờ, phút nữa. Họ nhìn lịch và đếm thời gian bằng tháng, bằng năm để
nhẩm tính mình đã sống bao lâu rồi và mình còn có thể sống thêm bao lâu nữa
(căn cứ vào tuổi thọ trung bình của người nam, hay người nữ, trong sắc dân của
họ, nơi họ đang sống). Ai có bệnh nền thì tuổi thọ có thể được giảm xuống 1
chút. Ai chưa có loại bệnh thông thường của người cao tuổi (áp huyết cao, tiểu
đường, máu có mỡ) được tạm xem là có thể sống thọ hơn tuổi trung bình. Cho đến
1 ngày khi bác sĩ báo tin buồn: vướng bịnh ung thư, nhất là loại ung thư quái
ác và vào thời kỳ cuối. Sức đã cạn, như ngọn đèn đã hết dầu và không còn dầu để
đốt; thôi thì đành xuôi tay, không chữa trị, chấp nhận số phận trong thuyết
sinh-lão-bệnh-tử. Trong những ngày cuối cùng, đâu có ai còn tha thiết đến những
hoài bảo chưa kịp làm, những viễn tưởng về đời sống trong 20 năm nữa mà nhiều
nhà khoa học đã cố gắng nghiên cứu và mong sẽ đạt thành. Nuối tiếc cũng bằng
thừa. Điều quan trọng là làm sao gói ghém những ngày còn lại để gia đình sẵn
sàng chấp nhận sự mất mát và thu gọn tàn cuộc 1 cách ổn thỏa. Tổ chức ngày gặp
lại người thân, bạn bè lần cuối ư? Có lẽ không nên, vì đâu có ai muốn chiêm ngưỡng
tấm thân “tàn ma dại” của mình. Hãy để hình ảnh đẹp đẽ của những ngày trước đó
sống mãi với người thân, với bạn bè. Tổ chức 1 tang lễ linh đình ư? Để làm gì,
ngoài việc giúp cho người trong nhà quàn có thêm công ăn, việc làm? Tất cả rồi
sẽ từ từ đi vào quên lãng, như kỷ niệm với cha mẹ, ông bà …
Thôi, đừng trách đời sao quá mong
manh, dễ dàng tan vở như bong bóng. Từ giả cuộc đời là 1 cơ hội hiếm có, mà con
người luôn chờ mong. Người theo Thiên chúa giáo thì mong kết quả của ngày
phán xét. Người theo Phật giáo thì chờ đợi kết quả của kiếp luân hồi.
Nói chung thì nếu trong quá khứ mình không làm điều ác, tán tận lương tâm (theo
lời dạy trong tôn giáo), tội chi mà phải lo. Đây là lúc mà điều thắc mắc trọn đời
mình không thể tìm được câu trả lời thỏa đáng (thí dụ như sau khi chết, linh hồn
mình còn hiện hữu nữa hay không) sẽ có câu trả lời. Những người chết trước, biết
được bí mật này nhưng lại “chơi xấu” không chịu truyền dạy cho mình. Nhưng không
sao, mình sẽ biết; hay là mình sẽ không còn biết nữa?

