Ngoài kia, trống đã điểm canh năm. Ánh trăng hạ
tuần còn leo lét giữa trời khuya. Cơn gió sớm thổi lùa qua khe vách đã đánh thức
mấy chú tiểu còn đang say ngủ. Thầy đã dạy: các con phải ráng sức, thức dậy đúng
giờ mỗi ngày để cùng nhau làm lễ công phu. Lần lượt từng người một, các chú tiểu
lặng lẽ rời khỏi giường, xếp lại chăn mền, đánh răng, rửa mặt, mặc áo lam, rồi
tiến vào chánh điện, ngồi chờ Thầy đến để làm lễ công phu. Cảm ơn Thầy đã dạy các
chú tiểu một thói quen, một kỷ luật mà các chú tiểu đã một lòng tuân theo, không
một lời nghi vấn, bởi vì các chú đã xem Thầy như người cha, người dìu dắt quan
trọng nhất trong đời.
Nhìn mấy chú tiểu ngồi xếp hàng, thấy mà thương. Có đứa tật nguyền, đôi
chân co rút, không đi đứng được, chỉ lê lết từ chỗ này đến chỗ khác. Có đứa mù
cả hai mắt, quờ quạng trong bóng tối, tìm đường mà đi. Có đứa còn nguyên vẹn,
chỉ tiếc là bịnh tự kỷ đã không cho phép nó phát triển như người bình thường. Có
đứa còn nguyên vẹn thật sự, mặt mày sáng sủa, lanh lợi nhưng đôi mắt có ẩn chút
u buồn - một dấu hiệu của sự thiếu thốn tình thương. Các chú tiểu này cùng
chung một số phận: bị cha mẹ bỏ rơi và nhờ Thầy rộng lòng thương đem về nuôi dưỡng.
Người ta đã bỏ rơi chúng, vì không đủ sức nuôi dưỡng? hay vì không muốn làm tròn
trách nhiệm của người mẹ? hay vì đã xem những đứa bé xấu số này như một thứ rác
rưởi cần vất bỏ đi? Trước sau gì thì chúng cũng đã không tự mình chọn lựa số phận
của chúng trước khi chào đời. Xin hỏi tình thương của người mẹ đã ở đâu?
Trong tư thế của người ngồi thiền, các chú tiểu ê a tiếng kinh cầu. Có
thể mấy đứa nhỏ không hiểu được lời kinh, vì kinh được phiên âm từ tiếng Phạn.
Nhưng chúng vẫn uy nghiêm đọc thuộc lòng hết kinh này, đến kinh khác, như đang
làm tròn bổn phận của một người tu. Có thể chúng tìm được trong tiếng kinh cầu
một niềm hy vọng cho ngày mai, một sự chia sẻ tình thương từ những đứa trẻ bất
hạnh đang ngồi chung quanh, một sự bao dung quảng đại của Thầy - một người mà
chúng lúc nào cũng có thể bám víu, không sợ chìm đắm trong bể khổ trầm luân. Và
trên tất cả, tiếng kinh cầu sẽ ở mãi với chúng vì chúng đã nguyện trọn đời làm
lễ công phu thường nhật.
Mà mấy đứa ngồi thiền giỏi thật, không nhúc nhích, không cười, không nói
– và nếu có ai cố tình chạm vào người của mấy đứa, tụi nó vẫn không hề có chút
phản ứng. Một chú tiểu khoảng 5 tuổi tâm sự:
-
Hồi xưa lúc con mới bắt đầu tập ngồi thiền, con rất mỏi,
sau 15 phút con muốn đứng lên mà khi ráng đứng lên, con bị té; bây giờ con đã
quen, con có thể ngồi thiền lâu lắm.
Thế mới biết ý chí có thể giúp con người vượt qua được nỗi đau vật chất,
chỉ cần bền lòng, không nản chí bỏ dở nửa đường. Củng trong chiều hướng đó, Thầy
dùng phương pháp vật lý trị liệu để giúp các bé không đi đứng được; kết quả đã
thấy hiện rõ từ từ.
Chùa nằm heo hút, khuất trong rừng cây, bên cạnh ngọn núi đá trọc đầu. Nơi
đó có một hòa thượng trụ trì, tuổi độ ngoài 40, một mình chăm sóc gần 30 chú tiểu
đáng thương. Nhiều phật tử tốt bụng quanh vùng thay nhau đến chùa nấu nướng, giúp
làm vệ sinh, giặt giũ và chăm sóc các chú tiểu sơ sinh hay tật nguyền. Nhờ vậy
Thầy được rảnh tay dạy dỗ các chú tiểu. Nhờ vậy không khí trong chùa không lạnh
lẽo và người ta cảm được đây quả là một mái ấm tình thương; duy chỉ thiếu hình
bóng của một người mẹ hiền - một thiếu thốn mà các chú tiểu sẽ phải chịu đựng
suốt đời. Một số người ở xa biết được việc làm của Thầy; họ cảm kích Thầy và thỉnh
thoảng ghé thăm chùa, mang theo quà bánh cho các tiểu và một số lương khô, tiền bạc dành
cho chùa. Trong mảnh đất phía sau chùa Thầy trồng rau củ, nên trên mâm cơm lúc
nào cũng có rau củ tươi, thanh đạm nhưng không thiếu phần dinh dưỡng.
Chùa thật đơn sơ, nhưng có chánh điện dành cho những ai muốn thờ cúng Phật,
có hậu liêu dành chỗ cho Thầy ngơi nghỉ, có phòng tập thể dành cho các chú tiểu,
có nhà bếp, có nhà vệ sinh, có điện, có tháp nước với máy bơm đưa nước từ giếng
lên. Như vậy chùa tạm có những tiện nghi cần thiết để mọi người có thể sinh hoạt
dễ dàng. Chùa không có những thứ xa hoa vì Thầy chủ trương chùa là nơi tu niệm,
dốc lòng từ bi, không chú
trọng đến bề ngoài, không ganh đua, phô bày. Nhưng Thầy luôn tu bổ chùa, không
để “nhà dột, cột xiêu” và Thầy nguyện giữ gìn chùa lâu đến mức có thể để Thầy còn
có chỗ để nuôi dưỡng những đứa trẻ lạc loài.
Ở một nơi thâm sơn cùng cốc khác, cũng vang lên những tiếng kinh cầu. Nơi
đây vào một buổi sáng đầu năm, có nhiều vị nữ tu Thiên chúa giáo khấn nguyện từ
nay và mãi mãi trọn đời dâng mình cho Chúa, quên mình để giúp đỡ tha nhân. Trước
sự chứng giám của Đức Giám mục sở tại, của các vị linh mục, trước mặt thân nhân
và hàng trăm giáo dân, các vị này phủ phục trước bàn thờ Chúa thành kính dâng lên
lời nguyện cầu an định, hoán
cải và tuân phục. Các vị nữ tu này đã từng tự nguyện rời xa gia đình,
làm nữ tu chính thức từ nhiều năm về trước, đã từng sống đạo vả không ngừng
giúp đỡ những người bất hạnh xa gần.
Bên cạnh các vị nữ tu này còn có nhiều nữ tu khác, tuổi tác khác nhau, cùng
nhau chia sẻ niềm tin, nâng đỡ, dìu dắt nhau trong cuộc sống thanh đạm trên vùng
đèo heo hút gió trong núi rừng Tây nguyên. Quanh năm
trong chiếc áo dòng, họ sống đời nghèo khó như một cách thể hiện lối sống khó
nghèo của Chúa Ki tô. Nói vậy, nhưng thật sự không phải là lối sống của người
2000 năm trước, vì tu viện có nhà gạch trét xi măng, có điện, nước, có quạt điện
để dùng trong những ngày nắng gắt. Phía sau tu viện có một chiếc ao để bầy vịt
hằng ngày đua nhau bơi lội, có chuồng bồ câu, có chuồng nuôi heo rừng, có các
luống rau … để giúp giảm thiểu chi phí hằng ngày cho tu viện.
Đặc biệt là nơi đây nhà thờ không có vách, chỉ có mái tôn che nắng che mưa.
Những hôm gió lộng, người đi lễ phải ráng nắm giữ áo của mình để áo khỏi bay.
Không ai màng đến những tiểu tiết thiếu tốn của nhà thở không vách, vì tất cả đang
lắng nghe lời kinh giảng, đang dồn hết tâm linh vào buổi lễ với những tiếng
kinh cầu. Nhà thờ không có những hàng ghế dài dành cho người đi lễ, mà chỉ có
những chiếc ghế nhựa đơn lẻ, xếp thành hàng gọn ghẽ để rồi sau buổi lễ người ta
xếp lại để sẵn sàng dùng trong một dịp khác sau này. Có lẽ giáo dân cũng mong muốn
rồi sẽ có một ngày nhà thờ của họ được tu bổ thêm, được khang trang như nhiều nhà
thờ khác; nhưng ở chốn đèo heo hút gió này, ít có khách vãng lai và giáo phận của
họ không có nhiều người dư dả, nên ước mơ vẫn cứ mãi là ước mơ. Nhưng như vậy cũng
hay, bởi vì nhà thờ không cần phải phô trương, xa hoa mà chỉ cần là một mái ấm
cho những ai muốn đến để thành kính dâng lên tiếng kinh cầu.
Tuy ở nơi sơn cùng thuỷ tận, tu viện (hay đan viện) vẫn liên lạc
thường xuyên với các giáo xứ khác, ngay cả những nơi cách xa hằng trăm cây số.
Nhờ vậy, tuy rằng hơi biệt lập, nhưng tu viện không cô lập; tất cả đều nhờ vào
mạng lưới quy mô của giáo hội đạo Công giáo. Trong ngày khấn nguyện an định của
các nữ tu, ngọn đồi của tu viện lại tràn ngập các linh mục, các nữ tu ở các giáo
phận xa gần, vui như mở hội. Khi các nữ tu tuyên khấn an định, nhiều người
trong nhóm họ hàng, thân hữu không cầm được giọt lệ, không biết vì vui mừng,
hay tiếc thương cho người nữ tu trọn đời không trở lại để chung sống với bạn bè,
với người thân. Phải có một động lực thật mạnh mẻ, thúc giục các vị nữ tu để
khiến họ tuyên khấn trọn đời noi gương Chúa. Người ngoại cuộc khó lòng hiểu được
lý do: có phải thật sự có ơn kêu gọi của Chúa, hay họ bị cám dỗ vì những điều tốt
đẹp về việc dâng mình cho Chúa, hay có lẽ họ muốn tìm được niềm vui trong việc
hy sinh bản thân để giúp tha nhân, hay… Dầu gì đi nữa, họ đã tự nguyện rồi, kết
quả tốt hay xấu hãy chờ tương lai trả lời.
Tương lai thì không ai dám chắc có chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng có một điều
khá chắc chắn: tương lai là quả của cái nhân mình đang tạo ra trong hiện tại. Nói
một cách mơ hồ, các chú tiểu mồ côi có thể rồi sẽ tiếp tục đi tu và sẽ noi gương
Thầy để nuôi dưỡng các trẻ lạc loài sau này. Nhưng trong thực tế, khi lớn lên, nếu
muốn, mấy chú có thể thay đổi ý định. Mấy chú có thể rời chùa, đi học, theo đuổi
ước mơ của mình, có thể sẽ thành công trên đường đời và sẽ có gia đình êm ấm, hạnh
phúc. Nói chung, tuổi đời của các chú hãy còn quá trẻ và cuộc đời tương lai của
các chú hãy còn chưa khép kín.
Khi chào đời, không ai biết được đời mình sẽ ra sao. Có người bạc hạnh
ngay từ lúc chào đời; có người bạc hạnh khi lạc cha, mất mẹ, lang thang sống bụi
đời. Như bé Định trong “Ngả đường thành hoá”[1], cô bé một thời sống kiếp
bụi đời ở Sài Gòn, từ khi còn chưa được tuổi 13. Duyên trời run rủi, khiến cô gặp
gỡ người anh cùng cha, khác mẹ. Kiếp lạc loài kể như chấm dứt khi cô về chung sống
với các anh, các chị mà cô chưa bao giờ biết. Tình thương máu mủ đã cột chặt đời
cô với những người thân. Khi trưởng thành, các anh các chị toan tính việc tương
lai, lo chọn trường đại học. Riêng cô, cô không may mắn để học hành đến nơi, đến
chốn. Nhưng cô có Phật tâm và quyết định rời nhà, qui y, với pháp danh Đức Thiện.
Đầu tháng tư 1975, chùa của cô bị người phía bên kia giải tán. Cô phải rời
chùa, trôi dạt về tạm sống với gia đình người chị. Có một ngày gia đình người
chị bị một nhóm người vũ trang đến vây chặt, trói ké, tra tấn, buộc phải giao nộp
nhà cửa, tiền bạc, tài sản cho “cách mạng”. Thương chị, cô đã không ngần ngại,
xông vào cởi trói cho chị. Một người cầm súng nổi nóng, lia vào người cô một loạt
đạn. Tuổi cô còn chưa được 18. Từ đó, ngày rằm và mồng một, người anh cắm một cây
hương lên bàn thờ của cô, ray rứt “phải chi hồi đó mình đừng cho nó đi tu”!